Minh Thập Tam Lăng – Hành Trình Du Lịch Ngược Dòng Thời Gian

Minh Thập Tam Lăng - Hành Trình Du Lịch Ngược Dòng Thời Gian

Thập Tam Lăng là quần thể 13 lăng mộ của 13 vị hoàng đế nhà Minh, nằm cách Bắc Kinh khoảng 50km về phía Bắc. Nơi đây được mệnh danh là “Bắc Kinh thu nhỏ” bởi sự tráng lệ, nguy nga và ẩn chứa nhiều bí ẩn lịch sử. Du lịch Thập Tam Lăng là hành trình ngược dòng thời gian, đưa bạn trở về quá khứ huy hoàng của triều đại nhà Minh trong du lịch Trung Quốc.

Bí ẩn lịch sử của Thập Tam Lăng

Thập Tam Lăng nằm ở khu vực Xương Bình, đây là tên gọi chung cho khu lăng mộ của 13 vị hoàng đế nhà Minh. Khu lăng mộ rộng 80 km², là khu lăng mộ hoàng gia được bảo tồn nguyên vẹn nhất hiện nay trên thế giới và là nơi chôn cất nhiều hoàng đế nhất.

Việc xây dựng Thập Tam Lăng bắt đầu từ năm 1409 dưới triều Minh và kéo dài hơn 200 năm cho đến đầu triều Thanh. Thứ tự xây dựng các lăng mộ theo thời gian là: Trường Lăng (lăng mộ vua Vĩnh Lạc), Hiến Lăng (lăng mộ vua Hồng Hi), Cảnh Lăng (lăng mộ vua Tuyên Đức), Dụ Lăng (lăng mộ vua Chính Thống), Mậu Lăng (lăng mộ vua Thành Hóa), Thái Lăng (lăng mộ vua Hoằng Trị), Khang Lăng (lăng mộ vua Chính Đức), Vĩnh Lăng (lăng mộ vua Gia Tĩnh), Chiêu Lăng (lăng mộ vua Long Khánh), Định Lăng (lăng mộ vua Vạn Lịch), Khánh Lăng (lăng mộ vua Thái Xương), Đức Lăng (lăng mộ vua Thiên Khải), Tư Lăng (lăng mộ vua Sùng Trinh). Ngoài 13 vị hoàng đế, khu lăng mộ còn chôn cất 23 vị hoàng hậu, 1 vị hoàng quý phi và hàng chục cung nhân tuẫn táng.

Thập Tam Lăng Bắc Kinh Trung Quốc

Ngoài ra, trong khu lăng mộ còn có 7 khu lăng mộ phi tần (Đông Tỉnh, Tây Tỉnh, lăng mộ Vạn Quý Phi, Đạo Lăng, lăng mộ Tứ Phi Nhị Thái Tử, lăng mộ Hiền Phi, lăng mộ Trịnh Quý Phi và lăng mộ Tứ Phi Nhị Lý, Lưu, Chu), 1 khu lăng mộ thái giám (lăng mộ Vương Thừa Ân) và các kiến trúc khác phục vụ cho việc vua, hoàng hậu đến viếng lăng như hành cung, vườn hoa. Để bảo vệ an ninh cho khu lăng mộ, tại 10 cửa ải tự nhiên xung quanh khu vực lăng (Đông Sơn Khẩu, Trung Sơn Khẩu, Trát Tử Khẩu, Tây Sơn Khẩu, Đức Thắng Khẩu, Nhạn Tử Khẩu, Chùy Thạch Khẩu, Hiền Trang Khẩu, Hồi Lĩnh Khẩu, Lão Quân Đường Khẩu) đã được xây dựng các công trình phòng thủ như tường thành, tường chắn ngựa.

Việc xây dựng lăng mộ hoàng gia nhà Minh được chia thành các bước sau:

  • Bói chọn địa điểm lăng mộ: Đây là bước đầu tiên và quan trọng nhất trong việc xây dựng lăng mộ. Các quan viên bói chọn, thường là các quan nhất, nhị phẩm trong triều đình, sẽ dẫn dắt các nhà phong thủy đến khu vực gần Bắc Kinh để khảo sát địa hình, dựa trên lý thuyết phong thủy, “quan sát hình dạng núi, xem xét mạch đất”, sau khi khảo sát thực địa, họ sẽ chọn ra một hoặc một số “vùng đất phong thủy tốt”, tấu lên hoàng đế, nếu cần thiết, họ sẽ vẽ bản đồ và ghi chú minh họa, cuối cùng do hoàng đế quyết định.
  • Lập quy hoạch: Sau khi chọn được địa điểm lăng mộ, sẽ tiến hành lập quy hoạch chi tiết cho việc xây dựng lăng mộ, bao gồm kiến trúc, bố cục, quy mô, v.v.
  • Chuẩn bị vật liệu và thi công: Sau khi hoàn thành quy hoạch, sẽ tiến hành chuẩn bị vật liệu và thi công xây dựng lăng mộ.

Thành Tổ Chu Đệ sau khi lên ngôi đã có ý định dời đô từ Nam Kinh đến Bắc Kinh. Năm 1408, Chu Đệ cử Lễ bộ thượng thư Triệu Nhược dẫn đầu thuật sĩ Giang Tây Liêu Quân Khanh đến khu vực gần Bắc Kinh để khảo sát địa điểm lăng mộ. Sau hơn một năm, họ đã tìm thấy “vùng đất cát tường muôn đời” tại núi Hoàng Thổ thuộc Xương Bình. Chu Đệ phong núi Hoàng Thổ là núi Thiên Thọ, hạ chiếu khu vực 80 dặm xung quanh lăng mộ.

Bố cục của Minh Thập Tam Lăng không tuân theo quy tắc “trái phải” trong sách “Chu Lễ”, mà dựa trên nguyên tắc “Kẻ tôn quý được đặt ở mạch chính, kẻ thấp hèn được đặt ở mạch phụ (mạch nhánh)”. Trường Lăng là lăng mộ đầu tiên của Thập Tam Lăng, nằm ở vị trí trung tâm của dãy núi Thiên Thọ, các lăng mộ khác được phân bố ở hai bên. Trong số các lăng mộ, Trường Lăng là lớn nhất, tiếp theo là Vĩnh Lăng và Định Lăng, Tư Lăng là nhỏ nhất. Cách thức xây dựng lăng mộ có thể chia thành ba loại:

  • Lăng mộ được xây dựng khi hoàng đế còn sống: Lăng mộ này có quy mô lớn và trang trí lộng lẫy (như Trường Lăng, Vĩnh Lăng, Định Lăng).
  • Lăng mộ được xây dựng bởi vua kế vị: Do di chiếu “tiết kiệm xây dựng lăng mộ” của tiên đế hoặc do ảnh hưởng của thời gian chôn cất và quốc lực, quy mô lăng mộ này nhỏ hơn và tương đối đơn giản (như Hiến Lăng, Cảnh Lăng).
  • Lăng mộ được xây dựng bởi triều đại sau khi hoàng đế qua đời và chưa kịp xây dựng: Lăng mộ này được xây dựng bởi triều đại tiếp theo sau khi đổi triều đại (như Tư Lăng).

Thập Tam Lăng nổi tiếng thế giới bởi quy mô rộng lớn, hệ thống lăng mộ hoàn chỉnh, bố cục hài hòa, cảnh đẹp thanh bình. Năm 1957, Thập Tam Lăng được xếp hạng là đơn vị bảo vệ di tích văn hóa kiến trúc trọng tâm của thành phố Bắc Kinh. Năm 1961, được xếp hạng là đơn vị bảo vệ di tích văn hóa quan trọng toàn quốc. Năm 1982, Thập Tam Lăng được xếp hạng là khu danh lam thắng cảnh đặc biệt toàn quốc. Ngày 3 tháng 7 năm 2003, Thập Tam Lăng được công nhận là Di sản Thế giới với tư cách là dự án mở rộng của Lăng mộ Hoàng gia Minh – Thanh.

Bí ẩn lịch sử của Thập Tam Lăng

Điếm nhấn không thể bỏ lỡ trong Thập Tam Lăng

Minh Trường Lăng

Trường Lăng là lăng mộ hợp táng của vị hoàng đế thứ ba nhà Minh – Minh Thành Tổ Chu Đệ và Hiếu Từ Hoàng hậu Hứa thị. Đây là lăng mộ có quy mô kiến trúc lớn nhất, thời gian xây dựng sớm nhất và kiến trúc mặt đất bảo tồn nguyên vẹn nhất trong số 13 lăng mộ của Minh triều.

Trường Lăng tọa lạc tại sườn núi phía Nam của dãy núi Thiên Thọ. Việc xây dựng bắt đầu từ tháng 5 năm 1409, đến tháng 1 năm 1413 thì hoàn thành phần lăng. Sau đó, linh cữu của Hiếu Từ Hoàng hậu được đưa từ Nam Kinh đến đây an táng. Tháng 3 năm 1416, điện Điền Ân (nơi diễn ra các nghi lễ cúng tế, tưởng nhớ đến các vị vua, hoàng hậu đã khuất) được hoàn thành. Đến tháng 3 năm 1427, công trình kiến trúc của khu lăng mộ được hoàn thành sau gần 18 năm thi công, với diện tích 120.000m². Sau đó, các công trình phụ trợ như hệ thống tượng đá dọc đường thần đạo cũng được liên tục xây dựng thêm, kiến trúc lăng mộ dần hoàn thiện.

Tượng đồng Minh Thành Tổ Chu Đệ trong điện Điền Ân, lăng Minh Trường (1)

Kiến trúc của 13 lăng mộ đều bao gồm ba phần: đường thần đạo, lăng cung và các công trình phụ trợ.

Đường thần đạo là phần dẫn dắt đến lăng cung. Trong số 13 lăng mộ, đường thần đạo của Trường Lăng là lớn nhất, vì đường thần đạo của 11 lăng mộ Hiến, Cảnh, Dụ, Mậu, Thái, Khang, Vĩnh, Chiêu, Định, Khánh, Đức đều được rẽ ra trực tiếp hoặc gián tiếp từ đường thần đạo này, do đó Lăng Trường Lăng được mệnh danh là “tổng thần đạo”. Đường thần đạo dài 7,3km, được xây dựng từ Nam ra Bắc với các công trình như: đá cổng còm, bia Hạ Mã, cổng Đại Hồng, đình bia Thần Công Thánh Đức, bia đá Hoa Biểu, trụ đá Vọng Trụ, tượng đá, cổng Lăng Tinh, cầu Ngũ Không, cầu Thất Không,… Tất cả được bố trí cân đối, tạo nên cảnh sắc tráng lệ.

Bước vào khu vực lăng mộ, đầu tiên đi vào tầm mắt là một cổng vòm đá cao lớn. Cổng được xây dựng vào năm 1540 (năm thứ 19 niên hiệu Gia Tĩnh), sử dụng các khối đá xanh khổng lồ chạm khắc tinh xảo, mô phỏng kiến trúc nhà gỗ cổ truyền của Trung Quốc, với 5 gian, 6 cột, 11 tầng mái, mặt rộng 28,86m, cao khoảng 12m. Cổng vòm có hình khối, cấu trúc chặt chẽ đẹp mắt, chế tác chắc chắn, mang giá trị nghệ thuật cao, là cổng vòm đá lớn nhất hiện có ở Trung Quốc, đồng thời là một tác phẩm nghệ thuật điêu khắc đá quý giá của thời kỳ Minh – Thanh.

Cổng Đại Hồng là cổng chính của khu lăng mộ, được xây dựng bằng gạch và đá, với mái ngói cong đơn giản, tường đỏ, ngói vàng, có 3 cửa vòm.

Bia Hạ Mã nằm ở hai bên trái phải trước cổng Đại Hồng, bia đá, thân bia hai mặt đều khắc 8 chữ “Cấm quan ngựa, người khác cũng vậy”, ý của 8 chữ này là “Quan lại và những người khác đến đây phải xuống”, thể hiện sự tôn kính đối với lăng mộ.

Khu vực bia Thần Công Thánh Đức có kiến trúc hai tầng mái cong, mặt bằng hình vuông, bốn mặt đều có cửa cuốn. Bên trong khu vực này có bia đá cao 7,91 mét. Trên đầu bia, chính giữa khắc chữ đề “Bia Thần Công Thánh Đức của Trường Lăng triều Đại Minh”. Mặt trước bia khắc hơn 3000 chữ, là bài văn bia do vua Minh Nhân Tông Chu Cao Chí viết vào năm 1425 để ca ngợi công lao của vua cha Minh Thành Tổ Chu Đệ. Bài văn ghi chép về chiến công “Kinh Nan” ( cuộc nội chiến trong những năm đầu triều Minh của Trung Quốc giữa Chu Doãn Văn (Minh Huệ Đế), và chú của ông – Yên vương Chu Đệ. Cuộc chiến bắt đầu năm 1399 và kéo dài trong 3 năm) dẹp loạn, lập quốc và dời đô của vua Thành Tổ. Khu vực bia được xây dựng vào năm 1435. Ba mặt còn lại của bia ban đầu không có chữ, đến thời nhà Thanh được vua Càn Long và Gia Khánh khắc thêm thơ

Bốn góc khu vực bia có cột đá hoa cương trắng, đế hình bát giác, chạm khắc hoa văn rồng mây và hoa sen. Trên đế là cột đá hình bát giác cao khoảng 9,5 mét, đường kính hơn 1,4 mét, chạm nổi hình rồng lớn uốn lượn giữa mây nước, như muốn bay ra ngoài. Đỉnh cột có mảng mây và bệ sen úp ngược nối liền nhau, trên đó đặt tượng đá hình con vật kỳ lạ, ngẩng cao đầu, cong đuôi, rướn cổ hí vang..

Phía bắc khu vực bia, hai bên đường thần đạo có một cặp cột đá hướng đối diện nhau và 36 tượng đá, được xây dựng từ năm Minh Chính Thống thứ nhất đến năm thứ ba (1436-1438). Các tượng đá bao gồm 12 cặp: sư tử, kỳ lân, lạc đà, voi, ngựa,… mỗi cặp có hai tượng ngồi (hoặc nằm) và hai tượng đứng. Sau đó là 12 tượng người bằng đá, gồm tượng quan võ, quan văn và công thần, đều là tượng đứng.

Cuối đường thần đạo là cổng Lăng Tinh, có kiến trúc ba cửa sáu cột, phù hợp với ý nghĩa “sao Linh Tinh rủ bóng ba cửa”, “lắp đặt sáu cánh cửa để mở ra đóng lại” được ghi trong sách “Vĩnh Lạc Đại Điển”.

Lăng cung là phần chính của kiến trúc lăng mộ. Lăng cung Trường Lăng về cơ bản tuân theo quy chế của Lăng mộ Hiếu Lăng triều Minh, bố cục tổng thể hình vuông ở phía trước và hình tròn ở phía sau. Khu vực sân vuông phía trước có ba phần, phần thứ nhất có cổng Lăng làm cửa, bên trong xây khu vực bia Long Phúc, bếp thần (nơi nấu nướng và làm đồ cúng cho người đến viếng lăng), kho cất giữ đồ tế (nơi cất giữ đồ cúng). Khu vực bia Long Phúc được xây dựng vào tháng 5 năm 1542, có kết cấu bằng gỗ, mái cong hai tầng, bên trong có trần nhà. Trong khu vực bia dựng bia đá, đầu bia và chân bia đều chạm khắc hình rồng lớn. Ban đầu bia không có chữ, đến thời nhà Thanh được vua Thuận Trị, Càn Long và Gia Khánh khắc thêm dụ chỉ và thơ.

Minh Trường Lăng

Khu vực sân vuông thứ hai có cổng Tần An, bên trong xây điện Điền Ân và lư hương, hai bên cổng có cửa đóng. Điện Điền Ân của Trường Lăng là điện thờ duy nhất còn sót lại trong các lăng mộ triều Minh, là nơi đặt bài vị của vua và hoàng hậu, đồng thời là nơi diễn ra các nghi thức cúng tế.

Điện được đặt trên nền móng và bệ đỡ dạng mái cong, xung quanh có lan can và cột đá hoa cương trắng bao quanh, mặt tiền rộng 9 gian, sâu 5 gian, tổng diện tích 1138m2. Bên trong điện, 60 cây cột gỗ nguyên khối đỡ toàn bộ trọng lượng mái điện, trong đó 4 cây cột ở gian giữa là to nhất, đường kính lên tới 1,12m, hai người ôm không xuể, là loại gỗ quý hiếm khó tìm trên đời.

Lư hương có mái ngói đơn, mặt trước lư hương có bốn cánh cửa giả, chính giữa có cửa vòm, bên trong cửa là một căn phòng nhỏ bằng gạch để đốt lễ vật dâng cúng dùng trong các nghi thức cúng tế. Ba mặt còn lại được ốp gạch men màu vàng, chân đế lư hương là dạng bệ sen.

Lò đốt tiền vàng tại Minh Trường Lăng

Khu vực sân vuông thứ ba có cổng màu đỏ, bên trong xây cổng tam quan, án thờ bằng đá và đồ cúng gồm lư hương, chân nến, bình hoa.

Cuối đường thần đạo là cổng Lăng Tinh, còn gọi là cổng vòm lửa, có cấu trúc ba cửa sáu trụ, phù hợp với ý nghĩa “hình ảnh ba cửa Lăng Tinh” và “thiết lập sáu cánh cửa để đóng mở” được đề cập trong “Đại Minh Hội Điển”.

Lăng tẩm là phần chính của kiến trúc lăng mộ. Kiến trúc lăng tẩm của Trường Lăng về cơ bản tuân theo hệ thống của Lăng Minh Hiếu, bố cục tổng thể hình vuông phía trước và hình tròn phía sau. Sân trước hình vuông có tổng cộng ba khu, khu thứ nhất lấy cổng lăng làm cửa, bên trong xây dựng đình bia Long Phủ, nhà bếp (nơi nấu cơm và làm đồ cúng cho người viếng lăng), kho (nơi cất giữ thức ăn). Đình bia Long Phủ được xây dựng vào tháng 5 năm Gia Tĩnh thứ 21 (năm 1542), kết cấu bằng gỗ, mái ngói cong hai tầng, bên trong có trần nhà. Trong đình dựng một tấm bia đá, đầu bia và đế bia mỗi bên đều khắc một con rồng khổng lồ.

Khu thứ hai lấy cổng Tam Sơn (cổng thứ hai trong khu vực lăng mộ) làm cửa, bên trong xây dựng điện chính, lư hương, hai bên cổng có cửa trái và phải. Điện chính Trường Lăng là điện lăng duy nhất còn sót lại từ thời nhà Minh, là nơi đặt bài vị vua chúa và tổ chức nghi thức cúng tế lăng. Đại điện tọa lạc trên nền bệ sen và nền ván dốc nhỏ, xung quanh có lan can đá trắng, cột vọng, mặt rộng 9 gian, sâu 5 gian, tổng diện tích 1138m2, 60 cây cột gỗ nguyên khối trong điện đỡ toàn bộ trọng lượng mái điện, trong đó 4 cây ở gian giữa là vững chắc nhất, đường kính đáy lên tới 1,12m, hai người ôm không thể vòng tay, là loại gỗ quý hiếm khó kiếm trên đời. Lư hương có mái ngói cong đơn, mặt trước thân lư hương có bốn cánh cửa gỗ, chính giữa có cửa vòm, bên trong cửa là phòng nhỏ bằng gạch nung, dùng để đốt đồ cúng. Ba mặt còn lại đều được ốp gạch lưu ly vàng, chân đế lư hương bằng gạch nung.

Các công trình kiến trúc phụ của Trường Lăng chủ yếu bao gồm điện phối bên trái và phải, nhà bếp, kho,… nhưng hiện nay di tích đã không thể phân biệt được.

Minh Thành Tổ Chu Đệ qua đời vào ngày mùng 8 tháng 7 năm Nhâm Tuất (1424) trong khi đang trên đường đi chinh phạt phương Bắc, cùng năm đó vào ngày 19 tháng 12 được an táng tại Trường Lăng. Trường Lăng có phi tần tuẫn táng, nhưng số lượng tuấn táng ghi chép trong các tài liệu không giống nhau. “Đại Minh Hội Điển” ghi chép: “Trường Lăng mười sáu phi, đều tuẫn táng.” Trong khi “Thực lục triều đại Lý Triều Tiên” ghi chép là hơn 30 người.

Trường Lăng được mở cửa đón du khách tham quan chính thức vào năm 1955, chủ yếu tham quan các công trình kiến trúc trên mặt đất, cung điện ngầm hiện nay vẫn chưa được mở.

Sảnh của Minh Trường Lăng

Minh Định Lăng

Lăng mộ Định Lăng là nơi an nghỉ chung của Minh Thần Tông, Hiếu Đoan Hiển Hoàng hậu và Hiếu Tĩnh Hoàng hậu.

Hoàng đế Vạn Lịch lên ngôi khi chỉ mới 10 tuổi và bắt đầu xây dựng Cung điện Trường Sinh cho mình khi mới 20 tuổi. Trải qua hơn một năm, 11 địa điểm lăng mộ đã được lựa chọn. Trong quá trình này, các quan lại và pháp sư phong thủy đã hai lần đến núi Thiên Thủ để tìm kiếm địa điểm phù hợp. Cuối cùng, sau khi thái hậu và các quan lại tự kiểm tra các lăng mộ, địa điểm chính thức đã được quyết định ở chân núi Đại Vũ. Trong quá trình xây dựng Định Lăng, Hoàng đế đã tổ chức sáu cuộc kiểm tra khác nhau. Lần kiểm tra gần đây nhất diễn ra vào Lễ hội Mùa đông vào tháng 9 năm 1588. Sau khi dẫn theo thê thiếp viếng thăm 3 lăng mộ Thường, Ung và Triệu, Hoàng đế đã dẫn các quan đại thần đi thị sát Định Lăng Bảo Thành và Huyền Cung. Họ cũng có dịp tham quan Huyền Cung, một công trình được xây dựng dưới lòng đất, và tận hưởng không gian tĩnh lặng trong cung.

Định Lăng được xây dựng tháng 11 năm 1584. Từ Văn Bi, Công tước của vương quốc Đinh, và Thân Thế Hưng, một học giả lỗi lạc, là những lãnh đạo chính của dự án này. Trong khi đó, Trương Tuệ Nghiên, Dương Triệu đảm nhiệm vai trò quản lý dự án. Mỗi ngày, từ hai mươi đến ba mươi nghìn thợ thủ công và binh lính tham gia vào quá trình xây dựng. Việc hoàn thành mặt bằng xây dựng mất 6 năm, kết thúc vào tháng 6 năm 1590. Công trình có diện tích khoảng 180.000m2 và đã tiêu tốn khoảng 8 triệu lạng bạc.

Minh Định Lăng

Bố cục tổng thể của các tòa nhà là hình tròn ở cả mặt trước và sau. Tòa chính bao gồm các Thần đạo trên mặt đất, dưới lòng đất và các công trình phụ trợ. Trên đường đến Thần đạo đã xây dựng một cây cầu đá ba liện tại cả Thần đạo và cây cầu đều bị bỏ hoang. Phía sau cầu có một tấm bia, và trong đình dựng một tấm bia không dấu. Đình đã bị phá hủy vào đầu thời nhà Thanh, nhưng tấm bia đá vẫn được bảo quản tốt.

Các công trình phụ trợ của Định Lăng bao gồm phòng quốc sự, điện thờ tổ tiên và phòng thờ, gian chế biến, người giám sát điện thờ, khu nuôi ngựa, v.v. Giờ đây, ngoại trừ di tích rõ ràng của người giám sát đền thờ và khu nuôi ngựa, tất cả di tích kiến ​​trúc khác đã biến mất.

Việc xây dựng lăng có 2 đặc điểm. Thứ nhất, quy mô của công trình rất hoành tráng. Các quy định kiến trúc của nó lẽ ra phải được mô phỏng theo Chiêu Lăng của Minh Mục Tông (Chu Tái Kỵ), cha của Minh Thần Tông, nhưng thực ra nó được xây dựng sau Vĩnh Lăng của ông nội mình, Minh Thế Tông (Chu Hậu Thông). Một số tòa nhà có độ tinh xảo thậm chí còn vượt qua cả Vĩnh Lăng. Mục đích của việc Minh Thần Tông bắt chước cha mình để thể hiện phẩm giá tối cao của một vị hoàng đế thông qua lăng mộ tráng lệ, đồng thời phản ánh sự vĩ đại của quyền lực đế quốc. Thứ hai, vật liệu xây dựng rất tinh xảo. Không chỉ bao gồm gỗ nanmu vàng, đá cẩm thạch trắng và đá piebald, mà còn có gạch thủ công được sản xuất đặc biệt cho Định Lăng và gạch vàng cho cung điện dưới lòng đất.

Tháng 5 năm 1956, việc khai quật thử nghiệm cung điện ngầm ở Định Lăng bắt đầu sau khi được sự chấp thuận của Nhà nước. Sau 1 năm, cuộc khai quật thử nghiệm đã thành công.

Cung điện ngầm trong Minh Định Lăng

Cung điện ngầm Định Lăng bao gồm 5 phòng cung điện cao ở phía trước, giữa, sau, trái và phải, tổng diện tích khoảng 1195 m2. Các phòng cung điện được ngăn cách bằng cửa đá. Cửa đá của các phòng trước, giữa và sau đều được làm bằng đá cẩm thạch trắng. Mặt trước của cửa có chạm khắc các vòng tổng cộng 81 hàng dọc ngang.

Có bốn cổng đá ở các sảnh và hành lang bên trái và bên phải. Cửa đá ở hành lang nhỏ hơn và được chạm khắc bằng đá xanh, trên cửa không có đinh cửa và phía trên còn có một chiếc quạt ống bằng đồng.

Phòng phía trước không có đồ đạc. Trong phòng giữa, trưng bày ngai vàng bằng đá cẩm thạch trắng của Minh Thần Tông và 2 hoàng hậu Hiếu Đoan Hiển Hoàng hậu và Hiếu Tĩnh Hoàng hậu. Trước các ngai vàng là 5 đồ cúng bằng men màu vàng và 1 thùng sứ lớn có hình mây xanh trắng và hình rồng. Phòng sau là phòng lớn nhất trong cung điện dưới lòng đất. Trong phòng, có một chiếc giường quan tài, trên đó đặt quan tài của Hoàng đế và 2 Hoàng hậu, cũng như các hộp chôn cất bằng gỗ. Mặt bằng của các phòng bên trái và bên phải là hình chữ nhật nằm ngang, không có đồ đạc nào được trưng bày.

Sau quá trình phân loại, hơn 3.000 di vật văn hóa đã được khai quật từ Cung điện ngầm Định Lăng. Đây là một bộ sưu tập đa dạng và tinh tế, bao gồm các loại vương miện vàng, vương miện phượng hoàng, bộ súng, trang sức, chén ngọc, sứ ba màu, lò nung và cốc sứ,… Tất cả đều là những di tích văn hóa vô cùng quý giá.

Cung điện ngầm Định Lăng là một trong số ít các lăng mộ hoàng gia được khai quật trong tổng số 13 ngôi mộ thời nhà Minh. Năm 1959, Bảo tàng Đinh Lăng đã được thành lập tại địa điểm ban đầu và chính thức mở cửa cho công chúng tham quan.

Minh Chiêu Lăng

Chiêu Lăng là nơi chôn cất chung của Minh Mục Tông Long Khánh, hoàng đế thứ 12 của nhà Minh, và các hoàng hậu: Hiếu Ý Trang Hoàng hậu, Hiếu An Hoàng hậu, Hiếu Định Hoàng hậu nằm ở chân phía đông núi Đại Vũ.

Hầm mộ dưới lòng đất của Lăng Chiêu Lăng được xây dựng vào năm 1538, ban đầu được vua Minh Thế Tông Chu Hậu Thông xây dựng cho cha mẹ của mình, nhưng sau đó bị bỏ hoang. Vào tháng 5 năm 1572, vua Minh Mục Tông băng hà, do lúc sinh thời không xây dựng cung điện để an dưỡng tuổi già, nhằm tiết kiệm thời gian, công sức và chi phí, sau khi được các đại học sĩ Trương Cư Chính cùng bộ Lễ và bộ Công thẩm định, họ cho rằng chỉ cần xây dựng thêm một phần cho hầm mộ có sẵn dưới chân núi Đại Dục, thì lăng mộ có thể hoàn thành. Ngày 15 tháng 6, vua Minh Thần Tông ra chiếu chỉ xây dựng lăng mộ cho tiên đế đã băng hà ở sườn núi phía đông Đại Dục. Tháng 7, hầm mộ dưới lòng đất được mở ra, và việc xây dựng các công trình kiến trúc trên mặt đất của lăng mộ bắt đầu ngay sau đó. Vào tháng 6 năm 1573, công trình mặt đất được hoàn thành, chỉ mất 1 năm.

Minh Chiêu Lăng

Lăng Chiêu Lăng có diện tích khoảng 34.600 mét vuông. Hệ thống kiến trúc lăng mộ cơ bản được kế thừa từ các lăng mộ Thái Lăng và Khang Lăng, với mặt bằng hình vuông ở phía trước và hình tròn ở phía sau, nhưng cũng có những đặc điểm riêng biệt.

Việc Chiêu Lăng sử dụng hầm mộ đã được xây dựng cho người khác để chôn cất hoàng đế và hoàng hậu là trường hợp vô cùng đặc biệt trong các lăng mộ nhà Minh. Trong lịch sử nhà Minh, đây là trường hợp duy nhất sử dụng hầm mộ đã được xây dựng cho người khác để chôn cất đế hậu.

Từ Chiêu Lăng, các lăng mộ hoàng gia nhà Minh và Thanh bắt đầu xuất hiện “Sân câm”. Thời nhà Minh, phần mộ trong thành bảo của sáu lăng mộ Hiến Lăng, Kính Lăng, Dụ Lăng, Mậu Lăng, Thái Lăng và Khang Lăng đều bắt đầu từ rãnh thoát nước hình tròn bên trong thành bảo, hình dạng mộ là gò đất tự nhiên. Tuy nhiên, phần mộ trong thành bảo của Lăng Chiêu Lăng cao ngang với tường thành bảo, phần giữa mộ có hình trụ tròn, nhỏ ở trên và lớn ở dưới. Phía trước phần mộ có thêm một bức tường chắn đất, nối với mặt trong của tường thành bảo ở hai bên thành phương, tạo thành một hình dạng giống như lưỡi liềm, thường được gọi là “Thành lưỡi liềm”. Do sân trong thành tương đối kín đáo nên còn được gọi là “Sân câm”.

Do thi công không cẩn thận, kiến trúc trong khu vực Chiêu Lăng đã phát sinh vấn đề chỉ sau 1 năm. Nền móng của Hiến Ân Môn, Hiến Ân Điện và các bức tường bắt đầu sụt lún liên tục, vô cùng nghiêm trọng. Vào tháng 2 năm 1575, Tả thị lang bộ Công Trần Nhất Tùng được lệnh giám sát việc sửa chữa công trình Lăng Chiêu Lăng, và hoàn thành vào tháng 7.

Việc xây dựng Lăng Chiêu Lăng tiêu tốn hàng triệu lạng bạc. Theo ghi chép trong “Minh Hy Tông Thực Lục”, tổng chi phí cho hai lần sửa chữa trước sau là hơn 1,5 triệu lạng bạc (không bao gồm chi phí xây dựng hầm mộ thời Gia Tĩnh; nếu tính cả chi phí xây dựng lăng mộ thời Gia Tĩnh, tổng chi phí ít nhất sẽ hơn 2 triệu lạng bạc).

Cổng phía Tây Minh Chiêu Lăng

Sau khi nhà Minh diệt vong, Chiêu Lăng liên tục bị tàn phá. Năm 1644, trong chiến tranh cuối nhà Minh đầu nhà Thanh, Minh Lâu bị thiêu rụi. Ngày 5 tháng 3 năm 1685 , trời mưa to, sấm sét đùng đùng, Hiến n Điện và hai dãy nhà phụ bị sét đánh trúng và bốc cháy. Nhân viên bảo vệ lăng liều mạng dập lửa, nhưng chỉ bảo vệ được hai dãy nhà phụ, Hiến n Điện bị thiêu rụi hoàn toàn. Vào thời vua Càn Long, hai dãy nhà phụ và Hiến n Môn cũng dần dần hư hại.

Từ năm 1785 đến năm 1787, triều đình nhà Thanh tiến hành sửa chữa đại quy mô 13 lăng mộ nhà Minh

Tháng 4 năm 1987, Văn phòng đặc khu Thập Tam Lăng bắt đầu tiến hành trùng tu, phục hồi các kiến trúc mặt đất của Chiêu Lăng. Tháng 8 năm 1990, hoàn thành việc thay thế kết cấu gỗ và mái ngói của Minh Lâu, đồng thời phục hồi, xây dựng lại Điện Phụng Ân, Cổng Phụng Ân, hai dãy hiên và Đình bia Thần Công Thánh Đức. Ngày 1 tháng 9, Chiêu Lăng mở cửa đón khách du lịch. Từ năm 1991 đến năm 1992, tiếp tục phục hồi, xây dựng các kiến trúc phụ trợ bên ngoài lăng mộ như Đình Tể Tính, Nhà bếp, Nhà kho. Chiêu Lăng trở thành lăng mộ có kiến trúc mặt đất nguyên vẹn nhất trong Thập Tam Lăng hiện nay.

Đình bia Thần Công Thánh Đức Minh Chiêu Lăng